Năm tư tưởng dân tộc căn bản mà tôi xin tóm lược như sau:
– Tư tưởng bình đẳng ví dụ như bình đẳng bẩm sinh (Rồng Tiên, 100 trứng Âu Cơ), bình đẳng hôn nhân (trong lựa chọn: Sơn Tinh Thủy Tinh, trong đời sống: Chử Đồng Tử).
– Tư tưởng đề cao gia đình vợ chồng, anh em (Trầu Cau), cha con (Chử Đồng Tử), tình thị tộc (Hồng Bàng thị) và quốc gia.
– Tư tưởng đề cao tinh thần dựng nước, giữ nước (Thánh Gióng), dựng nước (Ngư Tinh, Hồ Tinh, Mộc Tinh), quản trị đất nước (Bánh Chưng, Bánh Dầy), đề phòng mất nước (Rùa Thần, Mỵ Châu – Trọng Thủy) được đưa thành đạo sống hiện tiền.
– Tư tưởng chết chưa là hết, đề cao đời sau hay dở tùy cái nhân đời trước (Chử Đồng Tử, Quả Dưa Đỏ).
– Tư tưởng Đạo Ba (Thiên Địa Nhân, Trầu Cau Vôi), đặt người ngang hàng với Trời Đất (Bánh Chưng, Bánh Dầy), đi đến quan niệm Vạn Vật Đồng Nhất Thể (hai Giáo Sư Nguyễn Đăng Thục và Kim Định thích món này lắm)”.
Những nhận định nêu trên mới chỉ là những phác thảo thô sơ về tư tưởng Việt Nam.
Tinh thần của cuốn Việt Thư cần được viết sao cho các tôn giáo đều có thể dùng để bổ túc thêm vào những bài giảng, các bậc phụ huynh có thể dùng đọc cho các trẻ em lứa tuổi nhi đồng nghe, như một kiểu kể chuyện cổ tích xa xưa, nhưng có thêm những dẫn giải… nhằm tạo được những ý thức và tình tự dân tộc.
Cụ thể như:
- Khi giảng về tình vợ chồng, nghĩa anh em, có thể dùng sự tích Trầu Cau.
- Khi giảng về tình vợ chồng, ý chí tự lập tự cường, có thể dùng sự tích Quả Dưa Đỏ.
- Khi giảng về tình quê hương, có thể dùng sự tích Từ Thức.
Về ý nghĩa đạo lý:
- Món Bánh Chưng Bánh Dầy là một món ăn gắn liền với câu chuyện Lang Liêu, thể hiện sự sáng suốt và công bình trong việc chọn hiền tài.
- Món Trầu Cau gắn liền với câu chuyện anh em họ Cao, thể hiện sự gắn bó cần thiết giữa tình vợ chồng, nghĩa anh em.
- Món Bánh Trôi Bánh Chay với câu chuyện Một Mẹ Trăm Con, thể hiện tình đoàn kết dân tộc.
- Món Bánh Phu Thê với câu chuyện của Ỷ Lan Phu Nhân, thể hiện tình vợ chồng thắm thiết, hướng thượng, “cùng nhìn về một phía “ giang sơn, tổ quốc; thay vì chỉ nghĩ đến hạnh phúc riêng tư.
Những tập quán mời chào, lối ngồi, cách gắp thức ăn… thể hiện một nền luân lý gia đình theo trật tự, trên dưới, trước sau, trong ngoài… rất qui củ, được nhắc nhở:
Ăn trông nồi, ngồi trông hướng
Tiếng chào cao hơn mâm cỗ
Về ý nghĩa triết học:
Các món ăn Việt thể hiện mầu sắc của ngũ hành, thi vị của ngũ vị, bao hàm tư tưởng Âm + Dương = Hòa.
Hai câu thơ của Nguyễn Bỉnh Khiêm:
Thu ăn măng trúc, đông ăn giá,
Xuân tắm hồ sen, hạ tắm ao.
thể hiện việc ăn uống bình dị, mùa nào thức ấy, không cầu kỳ.
Về ý nghĩa y học:
Người Việt luôn dùng các loại rau thơm, có nhiều tính chất y lý, ăn kèm với các món ăn trong bữa ăn, để giúp cho sự tiêu hóa được dễ dàng, ngăn ngừa được các loại bệnh về ẩm thực:
- Rau răm được dùng ăn kèm với những loại thực phẩm khó tiêu như hột vịt lộn, thịt bò.
- Gừng, riềng nhiều nhiệt tính, được ăn kèm với các loại thực phẩm nhiều hàn tính, hoặc để kho với cá…
Một bài ca dao dậy cách ăn uống kèm với các thứ rau cỏ điển hình:
Con gà cục tác lá chanh,
Con lợn ủn ỉn mua hành cho tôi.
Con chó khóc đứng khóc ngồi:
Mẹ ơi đi chợ mua tôi đồng riềng.
Về ý nghĩa giao tế:
Người Việt coi việc ăn uống là tiên khởi của việc giao tế:
Miếng trầu là đầu câu chuyện
Miếng trầu ăn nặng bằng chì,
Ăn rồi em biết lấy gì đền ơn.
Nguyễn Khuyến đã nhận thấy việc ăn uống giao tế dần dần trở nên nặng nề, kiểu như:
Một miếng giữa làng bằng một sàng xó bếp
Nên đã làm bài thơ tiếp bạn:
Chẳng mấy khi bác tới chơi nhà,
Trẻ thì đi vắng, chợ thì xa.
Ao sâu nước cả khôn chài cá,
Vườn rộng rào thưa khó đuổi gà.
Cải mới ra hoa, cà chưa nụ,
Bầu vừa rụng rốn, mướp đương hoa.
Đầu trò tiếp khách, trầu không có,
Bác đến chơi đây, ta với ta.